=

Quyền tư pháp – cơ chế thực hiện và kiểm soát

Trong xây dựng Nhà nước pháp quyền (NNPQ) xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thì quyền tư pháp là một trong những nội dung quan trọng cần phải giải mã. Tuy nhiên, nhận thức cho đúng, cho sâu sắc về quyền tư pháp cũng như về cơ quan tư pháp, cơ quan thực hiện quyền tư pháp lại không phải là vấn đề đơn giản. Vì vậy, Viện Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp) vừa tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Quyền tư pháp – cơ chế thực hiện và kiểm soát” để cùng nhìn nhận thực tiễn và phương hướng hoàn thiện cơ chế thực hiện và kiểm soát quyền tư pháp ở nước ta.


TS. Nguyễn Văn Cương (Phó Viện trưởng Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp) cho biết: Theo quan điểm về quyền lực nhà nước lần đầu tiên xuất hiện trong một tác phẩm của Montesquieu và về sau được nhiều quốc gia trên thế giới chia sẻ thì quyền tư pháp là “quyền trừng trị tội phạm, phân xử tranh chấp giữa các cá nhân”. Còn ở Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu định nghĩa quyền tư pháp là “quyền xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, kinh tế, lao động, hành chính”.

Hiện nay, quyền tư pháp ở các nước phát triển không đơn thuần là quyền xét xử mà mở rộng bao gồm quyền giải thích pháp luật, quyền tuyên vi hiến các đạo luật, các hành vi của các nhánh quyền lực nhà nước và quyền tạo ra án lệ. “Đây chính là ba khác biệt quan trọng nhất trong quan niệm về phạm vi và quyền tư pháp ở nước ta so với nhiều nước” – ông Nguyễn Văn Cương chia sẻ. Tuy nhiên, không phải quốc gia phát triển nào cũng coi quyền tư pháp phải bao gồm cả 3 quyền trên, như ở Pháp không thừa nhận quyền tạo ra án lệ hay tại Anh thì không có quyền tuyên một đạo luật của Nghị viện Anh là vi hiến.

TS. Lưu Bình Nhưỡng (Vụ trưởng – Trưởng Ban III, Văn phòng Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương) kiến nghị cân nhắc đặt quyền tư pháp đúng vị trí của nó, “không bàn đến việc mở rộng vì đụng đến vấn đề chính trị”. Ông Nhưỡng nhấn mạnh, bản chất của Tòa án là thẩm phán, đòi hỏi chúng ta phải có đội ngũ thẩm phán như thế nào, “nhưng con người ấy hoạt động được thì phải có những người liên quan. Thẩm phán tự kiểm soát anh thì mới trở thành biểu tượng, còn người dân kiểm soát thì chúng ta mới có nền tư pháp thực sự”.

Nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Đình Lộc cũng cho rằng, mở rộng quyền tư pháp đến đâu thì phải liệu cơm gắp mắm. “Có một thời chúng ta “dị ứng” với học thuyết tam quyền phân lập nhưng thực ra đó là sự phân công lao động quyền lực. Xuất phát từ thực tế, quyền lập pháp phải khác quyền hành pháp, quyền hành pháp phải khác quyền tư pháp. Phân công như vậy để chuyên môn hóa hoạt động của các cơ quan Nhà nước” – ông Lộc nói.

Bảo đảm độc lập trong xét xử cho thẩm phán

PGS.TS. Ngô Huy Cương (Đại học Quốc gia Hà Nội) khẳng định, không cải cách tư pháp thành công thì không thể có NNPQ vì thành tố quan trọng của NNPQ là tất cả các quyền bị vi phạm phải bị xét xử. Theo ông Ngô Huy Cương, quyền tư pháp ở đây phải được hiểu là quyền lực tư pháp, hệ thống tư pháp không bảo vệ công lý thì là một nhà nước yếu. Do đó, đồng tình với ông Nhưỡng, ông Cương cho rằng, trọng tâm của cải cách tư pháp phải là các thẩm phán bởi quyền lực tư pháp thuộc về thẩm phán. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa Tòa án và thẩm phán hiện chưa được làm rõ, trong khi lại chưa có tiêu chí để đánh giá hệ thống tư pháp thế nào là tốt, là cải cách.

Còn theo TS. Tô Văn Hòa (Đại học Luật Hà Nội), Tòa án là nơi thực hiện quyền tư pháp một cách trọn vẹn, toàn diện nhất nhưng bản thân Tòa án thôi thì không đủ bảo đảm quyền tư pháp. Yêu cầu cao nhất trong NNPQ đối với Tòa án là tính độc lập song mong muốn của toàn xã hội đối với Tòa án là xét xử khách quan, công minh. Muốn vậy, phải có cơ chế kiểm soát để bảo đảm tính độc lập dẫn đến xét xử khách quan, công minh. Nhưng trong cơ chế hiện nay, chính thẩm phán lại là người không đề cập tới “độc lập”.

Chia sẻ với ông Hòa, PGS.TS. Nguyễn Minh Đoan (Đại học Luật Hà Nội) lý giải, bản thân thẩm phán lại không đủ khả năng, không đủ năng lực để độc lập và không muốn… độc lập vì sợ trách nhiệm cùng nhiều yếu tố khách quan khác. “Muốn thẩm phán độc lập nên kéo dài nhiệm kỳ của họ, nên coi đó là một nghề. Nếu không, phải bổ nhiệm nhiệm kỳ thẩm phán dài từ 15-20 năm để người ta yên tâm làm việc. Một yếu tố nữa là bảo đảm điều kiện vật chất, nâng lương cao để thẩm phán không bị chi phối bởi các yếu tố khác” – ông Đoan đề xuất.

Cẩm Vân